Khi Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, cách đây 50 năm

Quý NT và Các Bạn,


Bài “When South VN Died, 50 years Ago – WSJ” đươc bạn Trần H. Sa phiên dịch và được chú giãi bởi các bạn K30 tiểu đoàn 2.

Tác giã là Peter Kann, ký giã viết về VN cho tờ báo Wall Street Journal 7 năm, 1967-1975, và được giải Pulitzer 1972, Kann sau này trở thành chủ nhiệm của WSJ, và là CEO và chủ tịch của Dow Jones Company (công ty mẹ của WSJ). Nhận xét của Kann về VNCH vào 02-05-1975 khá đặc biệt, nhưng chỉ là chỉ để tham khảo vì tính lịch sử – hai ngày sau biến cố 30-04-1975; vì vậy K30 tiểu đoàn 2 viết thêm phần chú giãi. Bài gốc là “When South Vietnam Died, 50 Years Ago” đăng vào 25-04-2025 và phần tiếng anh (phía dưới) được đăng lại với dạng “gift unlocked article” từ tờ báo WSJ do Lê Như Tuấn, H30.


Thân Kính,


Phiên dịch – Trần H. Sa, H30

Một nhân viên CIA giúp những người Việt Nam di tản lên một chiếc trực thăng của Mỹ trên nóc một tòa nhà ở Sài Gòn vào năm 1975. Ảnh: Hugh Van Es/Bettmann qua Getty Images.

Tác giả Peter R. Kann … Ngày 25 tháng 4 năm 2025 …The Wall Street Journal.

{ Ghi chú của biên tập viên: Bài báo này xuất hiện trên Tạp chí The Wall Street Journal vào ngày 2 tháng 5 năm 1975. “Sài Gòn rơi vào tay miền Bắc Cộng sản vào ngày 30 tháng 4”.}

Miền Nam Việt Nam, hay đúng hơn là  Việt Nam Cộng Hòa mà tôi biết trong bảy năm qua, đã không còn nữa,

Có lẽ có rất nhiều người Mỹ đã thở phào nhẹ nhõm khi họ nghe tin ngày tận thế đã đến. Chắc chắn có một số người Mỹ chờ mong như thế, vì đằng nào thì Việt Nam Cộng Hòa cũng đã hết hạn sớm hơn nhiều. Nhưng chắc chắn cũng có một số người Mỹ thương tiếc sự ra đi đó. Tôi là một trong số họ.

Đối với tôi, sự sụp đổ của  Việt Nam Cộng Hòa giống như cái chết của một người quen cũ. Tôi thường phê bình Việt Nam Cộng Hòa, tôi không nghĩ nó đáng chết.

Những sai lầm và thất bại của Việt Nam Cộng Hòa luôn có thể được nhìn thấy nhiều hơn so với điểm mạnh của nó, và tôi, giống như hầu hết các phóng viên, ít nhất là có xu hướng tập trung sự chú ý chuyên môn của mình vào những gì mà Việt Nam Cộng Hòa đang làm sai. Có rất ít xã hội, và chắc chắn là rất ít những xã hội nhỏ và yếu đuối, từng phải chịu đựng mức độ chú ý phê bình, bị duy trì liên tục như Việt Nam Cộng Hòa đã từng. Tôi và hàng ngàn phóng viên khác đã mổ xẻ mọi khía cạnh của nó, phân tích mọi sai lầm của nó, vạch trần mọi khuyết điểm của nó (1). Điều này không có nghĩa là Việt Nam Cộng Hòa sẽ sống tốt hơn hoặc tồn tại lâu hơn nếu những sự soi mói đó bị ngưng lại (2), nhưng nó có thể tạo thêm một vài người đồng cảm tại tang lễ của nó.

Cuối cùng, tất nhiên, những người chỉ trích gay gắt nhất và những người bi quan sâu sắc nhất được chứng minh là đúng. Việt Nam Cộng Hòa  có thể đã tồn tại lâu hơn so với một số người bi quan dự đoán, nhưng nó bỗng sụp đổ – đột ngột, hỗn loạn, hoàn toàn. Và, tôi nghĩ, thật bi thảm (3).

Theo tôi, Việt Nam Cộng Hòa không tốt hơn nhưng không tệ hơn so với rất nhiều xã hội khác trên thế giới. Ít nhất là theo một số cách, nó không khác nhiều so với xã hội của chúng tôi. Rõ ràng là cấu trúc xã hội, chính phủ và quân đội của Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng đã quá yếu để chống lại những người Cộng sản Việt Nam. Ít rõ ràng hơn là suy nghĩ cho rằng Việt Nam Cộng Hòa  đã cố gắng chống cự trong nhiều năm, và không phải lúc nào cũng có rất nhiều sự giúp đỡ của Mỹ. Rất ít quốc gia hoặc xã hội mà tôi có thể nghĩ đến sẽ phải vật lộn được lâu như vậy.

Đúng là Việt Nam Cộng Hòa  thiếu một sự nghiệp thống nhất và tích cực vốn có thể cạnh tranh với cuộc thập tự chinh của Cộng sản. Chủ nghĩa chống cộng không bao giờ hấp dẫn, hoặc thậm chí có thể hiểu được đối với hầu hết người miền Nam Việt Nam (4). Chủ nghĩa tư bản, được đại diện bởi xe máy Honda và các hàng hóa nhập khẩu khác, không phải là căn nguyên chiếm được tình cảm và ý thức của người miền Nam. Chủ nghĩa quốc gia là một sự nghiệp gây tranh cãi, và nếu chỉ vì sự hiện diện quá lớn của người Mỹ ở Nam Việt Nam thì những người Cộng sản dường như là những người theo chủ nghĩa dân tộc thực sự. Vì vậy, Nam Việt Nam là một đất nước không có lý tưởng. Nhưng bây giờ hãy dừng lại để xem xét: Lý tưởng nào sẽ thúc đẩy bạn hoặc tôi chiến đấu trong 25 năm?

Đúng là Việt Nam Cộng Hòa  thiếu kiểu lãnh đạo sáng tạo, năng động, qua đó có thể hình dung khả dĩ thuyết phục tinh thần và hy sinh nhiều hơn, từ một quốc gia mệt mỏi vì chiến tranh. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không phải là chính khách có sức lôi cuốn. Ông là một quân nhân hướng nội và đa nghi, tỏ ra thành thạo một cách đáng ngạc nhiên trong trò chơi chính trị cung đình, nhưng là người chưa bao giờ thực sự học hỏi về cách lãnh đạo. Nhưng liệu ông Thiệu có thực sự là một nhà lãnh đạo kém so với hàng chục tướng lĩnh về hưu khác, những người từng cai trị các quốc gia bán phát triển khác trên thế giới hay không? Tôi nghĩ là không. Theo ánh sáng của chính mình, ông là một người Việt Nam yêu nước (5). Và, trước khi quá cứng rắn với các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam thất bại, có lẽ người ta nên dừng lại để điểm danh các chính khách thực sự nổi tiếng và thành công ở bất cứ đâu, trong thế giới phi cộng sản ngày nay. Danh sách của riêng tôi có thể được viết chỉ trên miếng băng cá nhân. Đúng là các chính trị gia và người dân Việt Nam Cộng Hòa  dường như chưa bao giờ có thể đoàn kết, rằng xã hội đó dường như bị chia rẽ và nghe có vẻ bất hòa. Giao thông hỗn loạn của Sài Gòn thường được coi là biểu tượng cho sự thiếu trật tự và kỷ luật của xã hội. Nhưng xã hội phi cộng sản nào ở ngày nay có thể khẳng định được chút nào về mức độ thống nhất chính trị và gắn kết xã hội ? Chúng ta, bằng các giá trị của mình, tôn trọng trật tự và kỷ luật như các mục tiêu của xã hội, hoặc đức tính của đạo đức? Phải chăng những xã hội tốt nhất có thực sự là những xã hội mà trong đó tất cả các chuyến tàu đều chạy đúng giờ và mọi người phải diễn hành đều bước?

Đúng là Việt Nam Cộng Hòa chưa bao giờ thực sự dân chủ. Các thể chế dân chủ của nó, được nhập khẩu từ Mỹ cùng với bom và gạo sấy, mang tính phô diễn hơn là thực chất (6). Tuy nhiên, nếu chỉ vì chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chưa bao giờ hiệu quả lắm, thì miền Nam Việt Nam, không giống như miền Bắc Việt Nam, không bao giờ đủ điều kiện là một nhà nước độc tài. Có các tù nhân chính trị, có các phòng tra tấn và các yếu tố khác của chủ nghĩa độc tài đôi khi khắc nghiệt (7). Nhưng cũng có một số hạn chế về quyền lực của tổng thống, có những lời chỉ trích khá rộng rãi – và không phải lúc nào cũng phải thì thầm – về các chính sách của chính phủ, có sự đa dạng đáng ngạc nhiên về ý kiến và hành vi cá nhân (8). Liệu Việt Nam Cộng Hòa  có thể tốt hơn nếu nó độc đoán hơn, cứng nhắc hơn và tàn nhẫn hơn ? Tôi nghi ngờ điều đó (9). Nhưng tôi cũng nghi ngờ rằng nó sẽ tốt hơn nếu cơ quan lập pháp thực hiện nhiều quyền lực hơn hoặc nếu vấn đề kiểm soát báo chí được nới lỏng hơn.

Đúng là Việt Nam Cộng Hòa có tham nhũng. Tham nhũng lan rộng và nghiêm trọng chỉ đơn giản là một vài vị tướng béo mập đang gửi tiết kiệm hàng triệu đô la trong các tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ (10). Toàn bộ hệ thống theo một nghĩa nào đó có tham nhũng. Ở cấp thấp nhất, đó là một vấn đề đơn giản ở các thư ký của chính quyền bổ sung thu nhập ít ỏi bằng những khoản hối lộ nhỏ. Ở cấp độ cao hơn, thường là trường hợp mua bán công việc được bán cho những người có thể trả tiền, thay vì giao cho những người có thể làm việc. Ở cấp độ cao nhất, có một số trường hợp tham nhũng trắng trợn (11). Nhưng không phải tất cả, có lẽ thậm chí không phải hầu hết, các sĩ quan hoặc nhân viên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều tham nhũng. Không phải là biện hộ cho nạn tham nhũng ở Việt Nam Cộng Hòa khi chỉ ra rằng nạn tham nhũng tồn tại ở mức độ tương đương với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. Cũng không phải là biện hộ cho nạn tham nhũng ở châu Á khi lưu ý rằng ít xã hội phương Tây nào trong sạch đến mức có thể ném đá vào nạn tham nhũng ở châu Á.

Đúng là xã hội Việt Nam Cộng Hòa bất bình đẳng và tôn vinh chủ nghĩa ưu tú. Người giàu của nó quá giàu và người nghèo của nó quá nghèo và sự khác biệt đều quá dễ nhìn thấy (12). Tiền và thế lực đã mua được các đặc quyền như hoãn nhập ngũ và cuối cùng, trốn lính (13). Tuy nhiên, sự chênh lệch ở Việt Nam Cộng Hòa thực sự ít rõ ràng hơn so với một số quốc gia đồng minh khác của Mỹ từ Philippines đến Brazil. Nông dân của Việt Nam Cộng Hòa, khi chiến tranh không diễn ra trên đồng lúa của họ, họ là những tiểu nông gia  thịnh vượng theo tiêu chuẩn của người châu Á. Tôi không hạ thấp nỗi thống khổ của hàng triệu người đã đi qua các trại tị nạn, khi tôi lưu ý rằng cũng có hàng triệu tiểu nông sở hữu đất đai của riêng họ và kiếm sống khá sung túc từ mùa màng của họ. Tóm lại, người nông dân của Việt Nam Cộng Hòa  không phải là những nông nô bị áp bức đang chờ đợi sự giải phóng khỏi một số chủ nô

Cũng nên nói, hoặc thú nhận nếu bạn muốn, rằng có rất nhiều người đáng yêu trong giới thượng lưu cai trị Việt Nam Cộng Hòa. Hầu hết mọi phóng viên dành thời gian ở đất nước này đều kết bạn với một số quan chức chính phủ, sĩ quan quân đội, doanh nhân, chính trị gia – một số thành viên của tầng lớp thượng lưu đó. Những người này thường quá xa cách với đồng hương và khung cảnh đồng quê của họ. Nhiều người quá giàu có hoặc quá theo khuynh hướng phương Tây nên ít có được nhiều mối quan hệ với nông dân hoặc binh lính (14). Họ không phải là loại người tốt nhất theo thang giá trị của Kinh thánh hoặc Phật giáo. Nhưng một số người trong số họ là bạn của tôi và tôi sẽ nhớ họ.

Đúng là quân lực Việt Nam Cộng Hòa  cuối cùng đã chứng tỏ họ không phải là đối thủ của quân đội Bắc Việt. Kết thúc là sáu tuần không vinh quang bởi sự rút lui, tháo chạy, hỗn loạn và sụp đổ (15). Tuy nhiên, quân lực Việt Nam Cộng Hòa  không phải là đội quân của những kẻ lố bịch và hèn nhát. Đó là một đội quân đã đứng vững và chiến đấu tốt ở nhiều nơi mà tất cả chúng ta đều quên tên. Và họ đã đứng vững và chiến đấu tốt trong hàng ngàn cuộc giao tranh nhỏ, trong hàng ngàn tiền đồn nhỏ bé được bao quanh bởi bùn lầy mà không người Mỹ nào biết tên.

Đó là một quân đội có những người lính xứng đáng có được sự lãnh đạo tốt hơn so với họ đã có (16). Đó là một quân đội mà trong nhiều năm đã chứng kiến người Mỹ cố gắng chống lại Cộng sản với mọi sự ngạc nhiên trước vũ khí hiện đại và sau đó, đột nhiên, họ bị bỏ lại để đối mặt với Cộng sản bằng các chiến thuật theo kiểu Mỹ, nhưng không có nguồn lực theo kiểu Mỹ. Đó là một đội quân Việt Nam có lẽ không bao giờ nên được Mỹ hóa và do đó sẽ không bao giờ cần Việt Nam hóa. Đó là một đội quân trong nhiều năm đã được lệnh bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc Việt Nam và họ đã cố gắng, với thành công lớn hơn hoặc nhỏ hơn, thực hiện cho bằng được chính xác mệnh lệnh đó. Khi đột nhiên được yêu cầu từ bỏ các thành phố và tỉnh lỵ, về căn bản, là họ đã từ bỏ chiến tranh (17).

Đó không phải là một quân đội gồm những sĩ quan và binh lính có xu hướng tấn công các vị trí bất khả xâm phạm của kẻ thù, hoặc những người sẵn sàng sống nhiều năm trong những cái hố dưới lòng đất với máy bay ném bom B-52 dội bom xuống chung quanh họ, hoặc là những người sẽ thực hiện chuyến đi dài và khủng khiếp trên Đường mòn Hồ Chí Minh, hoặc những người ra trận với động lực là suy nghĩ rằng ‘cái chết gần như chắc chắn của họ sẽ phục vụ cho một mục tiêu cao cả hơn’. Quân đội Bắc Việt là loại quân đội đó, nhưng có bao nhiêu quân đội khác, bao gồm cả quân đội của chúng ta, được tạo ra theo khuôn mẫu đó ? Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là một đội quân gồm những người lính đơn giản, không có lý do, đã chiến đấu trong hơn hai mươi năm. Vài trăm ngàn người lính này đã chết. Hơn nửa triệu người bị thương. Và, trong những tuần cuối cùng của cuộc chiến, khi mọi người Mỹ ở Sài Gòn đều biết chiến tranh đã thua, một số người lính này tiếp tục chiến đấu ở những nơi như Xuân Lộc và do đó đã dành một chút thời gian cho người Mỹ và những người Việt Nam được chọn trốn thoát bảo toàn mạng sống của họ. Đó là một đội quân tốt hơn nhiều so với vẻ ngoài vào lúc cuối cùng.

Đúng là Việt Nam Cộng Hòa đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ Mỹ và trở nên quá phụ thuộc vào Mỹ. Quân đội Liên Xô và Trung Quốc chưa bao giờ chiến đấu ở Việt Nam như quân đội Mỹ (18) . Trong gần mười năm, vì hầu hết các mục đích thực tế, Việt Nam Cộng Hòa là một thuộc địa của Mỹ (19). Quân đội Hoa Kỳ đã tiếp quản cuộc chiến và trong một thời gian đã hứa sẽ giành chiến thắng. Người nộp thuế Hoa Kỳ đã tài trợ cho Việt Nam Cộng Hòa. Washington đã thiết lập các chính sách của Sài Gòn và Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn phần lớn định hình chính trị của đất nước này. Việt Nam Cộng Hòa không phải lúc nào cũng là một con rối ngoan ngoãn và đôi khi họ không nhảy theo giai điệu của Mỹ. Nhưng qua nhiều năm, Việt Nam Cộng Hòa đã giả định – thực sự đã được dẫn dắt để giả định – rằng Hoa Kỳ là người bảo trợ và bảo vệ họ. Đó không phải là một giả định vô lý. Bởi thế, cũng không hoàn toàn vô lý khi người Việt Nam đôi khi bỏ qua trách nhiệm trước những thất bại của chính họ, đổ lỗi cho Hoa Kỳ về các vấn đề của họ, và đến cuối cùng, khi nước Mỹ mất đi nhiệt huyết với chiến tranh và mất hứng thú với Việt Nam, họ trở nên cay đắng với nước Mỹ và người Mỹ (20).

Cuối cùng, bên mạnh hơn đã giành chiến thắng. Cộng sản Việt Nam có nhiều sức mạnh và sức chịu đựng hơn. Họ có một lý do, một sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân tộc, và họ theo đuổi lý do đó với động cơ gần như là sự cứu rổi. Họ kiên trì chống lại mọi trở ngại và đôi khi chống lại mọi khó khăn và cuối cùng họ đã thành công (21).

Nhưng bên mạnh hơn không nhất thiết là bên tốt hơn. “Tốt hơn” trở thành một vấn đề về giá trị, và cho dù tôi có thể tôn trọng sức mạnh và sức chịu đựng của Cộng sản, tôi không thể chấp nhận rằng xã hội Cộng sản chiếm hữu nô lệ ở miền Bắc Việt Nam tốt hơn xã hội miền Nam Việt Nam rất không hoàn hảo mà tôi biết (22).

Đây là cáo phó cho miền Nam Việt Nam đó, cho Việt Nam Cộng Hòa. Nó không thể là cáo phó cho đất nước Việt Nam hay thậm chí là người dân Việt Nam. Các quốc gia không chết. Nam Việt Nam sẽ tiếp tục tồn tại trong vài tháng hoặc có thể vài năm với một chính phủ mới, các chính sách mới, một hệ thống xã hội mới (23). Sau đó, nó có lẽ sẽ sáp nhập với Bắc Việt Nam và Việt Nam mở rộng này sẽ thống trị Đông Dương, và sẽ trở thành một lực lượng to lớn ở châu Á nói chung. Đó sẽ là một quốc gia gồm 40 triệu người kiên cường và cứng rắn. Nó sẽ giàu tài nguyên thiên nhiên. Nó sẽ có một trong những đội quân tốt nhất, có thể là tốt nhất trên thế giới (24).

Có lẽ năng lượng của 40 triệu người Việt Nam sẽ được dành cho việc mở rộng hơn nữa về chính trị và quân sự. Trong cả hai tình huống, Việt Nam sẽ xứng đáng, và có thể làm chủ sự chú ý của thế giới trong những năm tới. Một số người của Việt Nam Cộng Hòa sẽ hăng hái  đón nhận hệ thống mới và xã hội mới. Một số sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh nhưng cuối cùng sẽ tìm thấy một vị trí trong trật tự mới. Một số sẽ không thể chấp nhận trật tự mới, hoặc sẽ không được trật tự mới chấp nhận (25). Họ sẽ bị loại bỏ bằng cách này hay cách khác, nhưng con cái của họ sẽ được dạy dỗ để trở thành một phần của xã hội mới (26).

Nước Việt Nam mới sẽ hùng mạnh và thành công (27), và đó là những phẩm chất dường như được tính đến giữa các quốc gia, cũng như giữa con người. Sách lịch sử có xu hướng đề cập đến cùng một chủ đề và do đó lịch sử không có khả năng nhìn nhận tích cực về Việt Nam Cộng Hòa khi đã không còn nữa. Nhưng đây không phải là lịch sử. Đây chỉ là cáo phó dành cho Việt Nam Cộng Hòa mà tôi biết.

(Xuất hiện trong ấn bản in ngày 26 tháng 4 năm 2025 với tựa đề  ‘Khi miền Nam Việt Nam chết, 50 năm trước’ )


_ Tác giả  Peter R. Kann là nhà cựu xuất bản Tạp chí The Wall Street Journal và là Giám đốc điều hành của Dow Jones & Co. Ông là một phóng viên của Tạp chí, người đã đưa tin về chiến tranh Việt Nam khi ông viết bài này.

_ Trần HSa lược dịch từ The Wall Street Journal….29/4/2025.


Phần phụ chú do các bạn K30 Tiểu Đoàn 2

(1) Các bài viết của cả ngàn phóng viên đã ảnh hưởng đến cử tri và quốc hội Mỹ, vì vậy viện trợ cho tài khoá 1974-1975 chỉ còn khoảng 1/3 so với sau hiệp đình Paris, sau khi được điều chỉnh về lạm phát và các phí tổn khác. Quận đội Mỹ sẽ tê liệt nếu mất đi 2/3 ngân sách. Đây là lý do chính làm VNCH mất đi.

(2) Nếu nhận được viện trợ 1,41 tỷ đô như đã hứa sau hiệp định Paris, thì VNCH không những tồn tại, mà còn sẻ phát triển mọi mặt, rồi sẻ hùng mạnh lên, đủ sức giãi phóng Miền Bắc.

(3) Tài khoá 1974-1975 bắt đầu từ tháng 7/1974 đến 6/1975. Theo mức độ xử dụng, thì khoảng tháng 1/1975, chiếc xe VNCH hết nhiên liệu, đạn dược, phụ tùng, và rồi đứng máy. Quá bi thảm là vì lính VNCH phải chống xe tăng của Bắc Việt do Nga cung cấp bằng dao găm.

(4) Người dân miền nam rất sợ cộng sản, nhất là sau Tết Mậu Thân 1968. Dân chạy bám theo mỗi lần lính cộng hoà di tản. Dân miền nam sống trong nổi lo sợ khi đêm đến, rồi du kích VC đến gõ cửa bắt đi hay thủ tiêu. Theo Douglas Pike ước tính khoảng 465 ngàn người dân miền nam chết và 935 ngàn người bị thương. Chỉ có khoảng một ngàn người dân miền Bắc chết và bị thương do các cuộc ném bom.

(5) TT Nguyễn Văn Thiệu cho đến ngày chết vẩn chỉ có một quốc tịch Việt Nam, trong khi Lê Duẩn tự hào là mình có hai tổ quốc – Việt Nam và Sô Viết trong kỳ Đại Hội lần 23 Đảng Cộng Sản Sô Viết. Thành phần lảnh đạo Bắc Việt phục vụ chủ nghĩa cộng sản nhiều hơn đất nước Việt Nam. Khi đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc cướp đoạt họ không phản ứng. Cộng sản Việt Nam coi nặng cộng sản hơn Việt Nam. Con cái của các nhân vật Bộ Chính Trị Bắc Việt hoàn toàn không có mặt trên chiến trường miền Nam.

(6) Miền Nam Việt Nam chưa phát triển đủ để tận hưởng các nguyên tắc dân chủ. Sự áp đặt các nguyên tắc dân chủ Mỹ cho VNCH là chuyện quá ấu trĩ khờ khạo của các chính khách Mỹ. Dân miền nam chỉ muốn sự an ninh, cơm áo, xe honda, và giáo dục của con em.

(7) Có cả ngàn phóng viên soi mói, lại thêm đại diện hội Hồng Thập Tự, và các tổ chức tôn giáo từ Mỹ; các tù binh VC sống còn sướng hơn nhân viên binh lính VNCH.

Tù Binh VC được thả ở sông Thạch Hản, Quảng Trị, sau hiệp định Hoà Bình 1973

Tù Binh VC tuyệt thực ca hát tối ngày tại Côn Sơn, Phú Quốc, chẳng ai dám đụng tới. Năm 1973 VNCH giao trả hơn 43 ngàn tù binh cho Bắc Việt (hơn 4 sư đoàn); trong số này có người trở thành tướng đánh miền nam năm 1975. Theo thổ lộ của một số cán binh Bắc Việt , thời làm tù binh là quảng đời vui nhất, nhiều lần được nếm chocolate.

(8) Người dân miền nam có thể chỉ trích công khai Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, nhưng người dân miền Bắc, hay cả nước VN sau 1975, nếu chỉ trích quan chức nhà nước, lớn hay nhỏ, là đi tù, có thể chung thân hay tử hình. Quan chức VNCH rất sợ phóng viên, ngay cả phong viên trong nước, chỉ một bài tố cáo vu vơ là họ mất chức.

(9) Nam Hàn, Đài Loan, Singapore đều có chính quyền khắt khe, độc đoán so với VNCH, và tất cả đã thành công rực rỡ. Chính quyền VNCH thời đệ nhị Cộng Hoà thì yếu kém, hơi mị dân dù là trong chiến tranh. Họ rất sợ các sư đoàn ký giã báo chí. Nếu nền đệ nhất Cộng Hoà không đánh đổ miền Nam Việt Nam sẽ phát triển không kém gì Nam Hàn, Đài Loan, và Singapore. Ngoài ra, vô cùng ô nhục, khi chính quyền Mỹ nhân danh nguyên tắc dân chủ để sát hại Ngô Đình Diệm, tổng thống một nước đồng minh chỉ vì bất đồng về đường lối chính sách. Vậy thì, giã sử Zelensky, tổng thống nước Ukraine, bị sát hại bởi chính quyền Mỹ do sự bất đồng về đường lối … sẻ ra sao?

(10) Tất cả tướng lảnh VNCH tỵ nạn sống rất vất vả tại Mỹ. Vị tướng được được xem là béo mập là Tướng Đặng Văn Quang. Tất cả chỉ là tin tức thất thiệt vu khống. VNCH bị đáng sập bởi các bài viết của hai trung đoàn phóng viên ngoại quốc và nội địa bất lương. Những nổi cực khổ và oan ức của tướ ng Đặng Văn Quang đã được tác giả R.V. Schheide viết trong bài“The Trial of General Dang” trên báo Sacramento News & Reviews ngày 4 tháng 12, 2008, và sẻ được đăng lại trên trang web K30 này.

(11) Đây có thể là sự ám chỉ đến Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tuy nhiên cũng chỉ là sự vu khống theo kiểu nhà báo nói láo ăn tiền. TT Thiệu sống gần 10 năm ở thành phố Foxborough, khu trung lưu bình dân, không phải là lối sống đại gia như lời vu cáo. Chuyện ăn bò dác vàng chỉ dành cho Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam.

(12) Thành phần nghèo đói nhất không phải là nông dân, mà binh lính, viên chức nhỏ của VNCH. Họ bị đày đoạ trong chiến tranh, và bị kỳ thị hành hạ sau chiến tranh cho đến bây giờ (2025, dù là đã 50 năm). Những người khốn cùng nhất trên đường phố Saigon là con cháu của họ.

(13) Không một con cháu của của các nhân vật trong Bộ Chính Trị đảng cộng sản miền Bắc có mặt trên chiến trườn miền Nam. Con cháu họ thường được gởi đi du học Nga và các nước Đông Âu trong lúc chiến tranh.

(14) Những người may mắn là khoảng 130 ngàn được di tản. Nhưng chẳng ai nghỉ họ giàu, chỉ một chút may mắn hơn. Hầu hết ai cũng sống trong nổi lo sợ cộng sản, không biết ngày mai sẽ ra sao.

(15) Binh lính VNCH rút lui hổn loạn khi nhận ra súng đã hết đạn, xe hết xăng, máy bay không còn phụ tùng thay thế để bay, viện trợ đã xài hết rồi. “Chúng ta bị phản bội”.

(16) Theo Bùi Tín, các sỹ quan trung cấp miền Nam – cấp tiểu đoàn và trung đoàn, có khả năng, chuyên nghiệp, và can đảm; trong khi các chỉ huy cấp cao là ngờ nghệch xôi thịt. Chính Lê Duẩn cho rằng phải đánh gấp trước khi quân đội miền Nam trưởng thành và do đám sỹ quan trẻ chỉ huy.

(17) Đây là một quyết định hốt hoảng sai lầm của TT Nguyễn Văn Thiệu và cấp chỉ huy. Vẩn có thể cứu vãn được ngay cả sau khi Ban Mê Thuột thất thủ.

(18) Gần đây chính Bắc Việt thú nhận có lính Nga và Trung Quốc tham chiến tại Việt Nam.

(19) Nếu biết lợi dụng thì VNCH sẻ giàu lên bằng cách cung cấp dịch vụ cho 500 ngàn lính Mỹ, đây là một hình thức xuất cảng nội địa.

Binh lính Nam Hàn trở về nước sau hiệp đinh Hoà Bình Paris

Nam Hàn, Đài Loan, Singapore vươn lên nhờ chiến tranh Việt Nam. Sau khi tham chiến ở Việt Nam, binh lính Nam Hàn thường để dành đủ tiền để mua nhà, hoặc cho con đi học đại học, hoặc cưới vợ đẹp; con cháu họ rất thành công sau này.

(20) Sự cắt giảm 2/3 viện trợ Mỹ cùng với sự kém linh động của chính quyền miền Nam đưa đến sự sụp đổ VNCH trước sự tấn công của miền Bắc. VNCH vẩn có thể đứng vửng nếu có một chính phủ khôn khéo dù bị cắt giảm viện trợ. Nếu còn viện trợ như đã hứa thì một chính quyền trung bình cũng giữ được miền nam.

(21) Xã hội cộng sản miền Bắc bó buột thanh niên phải lên đường vào nam chiến đấu để cha mẹ và gia đình họ có cơm ăn, ngoài trừ họ là con cái đảng viên cao cấp, rất giống tình trạng của xả hội Bắc Hàn mà họ hay ca tụng qua các bài hát ( … anh dũng dũng Bắc Triều Tiên). Tuy nhiên số phận VNCH định đoạt bởi vụ Watergate, nói chung bởi hệ thống báo chí gian dối thiên tả của Mỹ (fake news).

(22) Những điểm sáng và nổi bật của xã hội miền Nam 20 năm dưới thời VNCH có thể được nhìn thấy qua tác phẩm văn chương, thi ca, nhạc kịch, phim ảnh, thời trang (áo dài, …), kiến trúc, thực phẩm … Sản phẩm văn hoá duy nhất của miền Bắc sau 70 năm là chiếc nón cối. Theo bài báo này, nông dân miền Nam sống sung túc so với nông dân các quốc Đông Nam Á, và đa số dân miền Nam Việt Nam là nông dân.

(23) Trong vòng hai năm sau 30-04-1975, các nhân vật Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam gần như bị loại thải và một số may mắn trốn chạy ra nước như Trương Như Tảng, bộ trưởng Tư Pháp.

(24) Mười năm sau biến cố 30-04-1075 là thời gian đói khổ nhất trong lịch sử dân tộc, thú nhận từ chính các đảng viên cộng sản Việt Nam. Gạo còn không có để ăn, không chế tạo được một viên đạn AK để bắn, Liên Bang Sô Viết thì kiệt quệ sắp chết, quân đội cộng sản Việt Nam có thể là đông nhất theo tỉ lệ dân số, và có nhiều dao và mả tấu nhất. Cộng Sản Việt Nam lại xin làm chư hầu cho Trung Quốc để tồn tại (mật ước Thành Đô, 1990).

(25) Sau 30-04-1975, miều nam Việt Nam trở thành một trại tù lớn, và khoảng 1,2 triệu người bị nhốt vào các trại tù cải tạo khổ sai, có người bị nhốt đến 18 năm. Bên ngoài chính quyền cộng sản tổ chức ba cuộc tổng tấn công gọi là “đánh tư sản”, cướp nhà cửa tài sản của dân miền Nam, ném họ vào vùng gọi là kinh tế mới, rồi cống nộp 40 tấn vàng cho Nga. Đây chính là chiến thắng lớn nhất của đảng cộng sản Việt Nam và cũng là tội ác đối với nhân loại.

Binh lính LĐ 1 Dù VNCH ở Long Khánh, ba tuần trước khi Saigon thất thủ

(26) Phần đông những người khốn khổ đáng thương trên đường phố Saigon là những con cháu của binh lính và nhân viên VNCH, dù là đã 50 năm rồi, vẩn bị đày đoạ, khinh miệt như là nô lệ. Mỗi lần xin đi học, đi làm vẩn bị hỏi về lý lịch VNCH của ông nội, ông ngoại, dù đả họ chết từ lâu rồi.

(27) Năm 2016, chính quyền Donald Trump tìm cách cô lập kinh tế Trung Quốc, đã khuyến khích các quốc gia Đông Nam Á như Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, và Nhật đầu tư vào Việt Nam, giúp đỡ Việt Nam bớt lệ thuộc Trung Quốc. Các công ty Mỹ ở Trung Quốc cũng được khuyến khích dời qua Việt Nam. Ngay cả các Công Ty Trung Quốc cũng chuyển dời sang Việt Nam để tránh chính sách thuế khoá của Mỹ. Cũng nhờ sự đổ vốn đầu tư của từ rất nhiều quốc gia theo yêu cầu của Mỹ, kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển mạnh sau 40 năm trì trệ, lạc hậu.


The “gift unlocked article” from WSJ:

The english version with notes from members of Class 30 – Vietnamese National Military Academy is posted under the english section.